1.1 Ngành logistic theo quy định của pháp luật Việt Nam
Nội dung quản trị logistics:
Quản trị logistics có nội dung rất rộng lớn bao gồm như: vận tải, kho bãi, hệ thống thông tin, dịch vụ khách hàng, dự trữ, quản trị vật tư, quản trị chi phí.
Các nguyên liệu, hàng hóa,.. từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng cần nhờ vào các phương tiện vận tải để vận chuyển. Vì vậy vận tải có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động logistics. Qua đó sẽ giúp cải thiện được giá trị của khách hàng thông qua việc cắt giảm chi phí giao hàng, cải thiện tốc độ giao hàng và làm giảm thiệt hại cho sản phẩm khi áp dụng phương thức vận tải.
Kho bãi là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống logistics, là nơi lưu giữ những nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay thành phẩm trong quá trình chu chuyển từ điểm đầu cho đến điểm cuối của chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó kho bãi còn cung cấp các thông tin về tình trạng, điều kiện lưu trữ và vị trí của các hàng hóa được lưu kho.
Hệ thống thông tin là một yếu tố rất quan trọng không thể thay thế trong việc kiểm soát và hoạch định của quá trình quản trị logistics. Nhờ vào những thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại sẽ giúp đưa ra các quyết định và chiến lược kinh doanh đúng đắn. Trong quản trị logistics thì hệ thống thông tin sẽ gồm các thông tin có trong nội bộ tổ chức ( doanh nghiệp, khách hàng, nhà cung cấp,…), thông tin liên quan tới từng bộ phận chức năng (logistic kỹ thuật, kế toán, quản trị sản xuất, marketing,…), thông tin tại từng khâu trong dây chuyền cung ứng (kho bãi, vận tải,…)
Dịch vụ khách hàng được diễn ra thông qua hoạt động giữa người mua, người bán cùng với bên thứ 3. Đây là quá trình cung cấp những lợi ích được lấy từ các giá trị gia tăng cho dây chuyền cung ứng và đảm bảo chi phí hiệu quả nhất. Giá trị gia tăng ở đây chính là sự hài lòng của khách hàng, là hiệu số giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế có quan hệ và tác động tương hỗ với nhau.
Dự trữ là sự tích lại một phần sản phẩm ở mỗi giai đoạn vận động từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được diễn ra liên tục và được nhịp nhàng nhất. Đảm bảo dây chuyền hoạt động diễn ra suôn sẻ không ảnh hưởng đến việc kinh doanh.
Quản trị vật tư là yếu tố đầu vào của quá trình logistics, là hoạt động bao gồm xác định các nhu cầu về vật tư, tìm nguồn cung cấp vật tư, mua sắm hoặc thu mua các vật tư, vận chuyển, nhập kho và lưu kho vật tư. Dù việc quản trị vật tư không có ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng nhưng lại giữ một vai trò quan trọng đối với hoạt động logistics sẽ góp phần đem đến một sản phẩm tốt được ra mắt đến tay người tiêu dùng.
Logistics là một chuỗi tích hợp rất nhiều hoạt động khác nhau và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy khi giảm chi phí ở khâu này sẽ có thể làm tăng chi phí ở khâu khác và cuối cùng tổng chi phí không giảm mà còn có thể tăng ngược lại với những mục đích của quản trị chi phí logistics. Việc quản trị chi phí trong logistics sẽ có kế hoạch tương ứng chi tiết tương ứng chi phí nhất định cho các khâu giúp tiết kiệm được chi phí tối đa nhất.
Các tỉnh, thành, KCN nhận gom/giao hàng tận nơi theo yêu cầu
* Các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên:
* Hoặc tại các KCN lớn ở Việt Nam:
Phước Đông, Đức Hòa III, Nhơn Hội Bình Định, Mỹ Phước 3, Tân Khai, Minh Hưng, Đồng Xoài, Tân Phú Trung, Hàm Kiệm, Bình Thuận, Bàu Xéo, Lộc An – Bình Sơn, Giang Điền, An Tây, Bỉm Sơn, Long Đức, Du Long, An Hòa; Long Hương, Tam Điệp II, Trâm Vàng, Cát Trinh, Mỹ Yên – Tân Bửu – Long Hiệp; Khánh Phú, Bá Thiện 2, Nhơn Hòa, Yên Phong II, Cộng Hoà, Đông Anh, Sóc Sơn; Ascendas – Protrade, ITAHAN, Ông Kèo, Long Khánh, Dầu Giây, KCN Thạnh Đức, KCN Sông Công 2, KCN Bắc Đồng Phú, KCN Thuận Yên,…
Giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng truyền thống
Sử dụng năng lượng xanh giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch như than, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Có thể giúp giảm rủi ro về giá cả và ổn định nguồn cung cấp năng lượng.
Mặc dù vài thập kỷ qua đã chứng kiến sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong việc sử dụng năng lượng xanh, nhưng vẫn cần phải xem xét một số hạn chế đối với nguồn năng lượng này.
Một số nguồn năng lượng xanh phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và khí quyển để hoạt động. Các đập thủy điện cần có đủ lượng mưa để lấp đầy đập và có nguồn nước chảy liên tục. Tua bin gió yêu cầu gió thổi ở tốc độ gió tối thiểu để di chuyển các cánh quạt. Các tấm pin mặt trời cần bầu trời ngập ánh nắng để tạo ra điện. Ngoài ra, các tấm pin mặt trời không thể tạo ra điện vào ban đêm.
Vẫn cần phải làm nhiều việc hơn để làm cho năng lượng tái tạo hiệu quả hơn trong việc khai thác năng lượng và chuyển đổi thành điện năng. Do đó, các dự án lắp đặt và bảo trì một số nguồn năng lượng xanh đôi khi có thể khá tốn kém.
So với các nguồn năng lượng khác, các nguồn năng lượng tái tạo chiếm không gian để sản xuất năng lượng. Năng lượng mặt trời có thể sử dụng hơn 100 mẫu pin mặt trời để sản xuất khoảng 20 megawatt điện. Để so sánh, một cơ sở hạt nhân rộng 650 mẫu có thể sản xuất khoảng 1.000 MW điện, trong khi một nhà máy năng lượng mặt trời có cùng quy mô sẽ chỉ có 200 MW. Một tuabin gió hai megawatt cần diện tích 1,5 mẫu.
Để lưu trữ năng lượng xanh, cần phải sử dụng các hệ thống lưu trữ như pin quang điện, hệ thống lưu trữ năng lượng thủy điện hoặc các công nghệ lưu trữ tiên tiến. Các hệ thống này thường cần đầu tư về công nghệ và cơ sở hạ tầng, có thể tốn kém về chi phí và không gian.
Trong quá trình lưu trữ năng lượng xanh, có thể xảy ra mất điện năng do sự mất mát nhiệt, khí hậu hay các quá trình chuyển đổi năng lượng. Việc này có thể làm giảm hiệu suất tổng thể của hệ thống lưu trữ.
Hiện tại, công suất phát điện từ năng lượng xanh chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu năng lượng của chúng ta. Khi các công nghệ năng lượng tái tạo được cải thiện và mức tiêu thụ năng lượng giảm do các thiết bị, thiết bị điện tử và chiếu sáng hiệu quả hơn, có thể đến lúc cần xây dựng các nhà máy năng lượng tái tạo mới và bổ sung để đáp ứng nhu cầu năng lượng. Chúng ta vẫn chưa đạt được mục tiêu đó và vẫn sẽ sử dụng nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân để cung cấp một phần năng lượng đáng kể cho đến lúc đó.
Hoạt động cơ bản và chức năng của quản trị logistics:
– Hoạt động cơ bản của quản trị logistics bao gồm:
– Quản trị logistics có chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.
Xem thêm: Các giải pháp quản lý kho hàng hiệu quả trong logistic
Khái niệm về thuật ngữ E Logistic
E logistic là gì? Trong Thương mại điện tử (TMĐT) E-commerce, Logistics là một trong những yếu tố chủ đạo quyết định lợi nhuận của Doanh nghiệp. E-logistics trong TMĐT B2C (Business to Customer) là toàn bộ các hoạt động nhằm hỗ trợ việc di chuyển hàng hóa từ nơi cung ứng đến nơi tiêu dùng thông qua các giao dịch mua bán điện tử. TMĐT là mô hình bán hàng online thông qua kênh bán hàng trực tuyến. Với đặc thù là độ phủ thị trường rộng, độ phân tán hàng hóa cao, quy mô bán lẻ, tần suất mua lớn, mặt hàng đa dạng, thường yêu cầu giao hàng nhanh và thu tiền tận nơi.
Theo tính toán, khoảng 40% tổng chi phí bán hàng trên mạng tập trung vào sau giai đoạn khách hàng nhấn vào biểu tượng mua. Khi khách hàng trở thành người mua trong một giao dịch online thì DN cũng bắt đầu cho quá trình e-logistics. Xử lý và thực hiện đơn hàng, giao hàng, thanh toán, đổi hàng và thu hồi lại những hàng hóa không ưng ý,… là những nội dung cơ bản của logistics trong môi trường này.
Trong bán lẻ truyền thống, giới hạn bán kính phục vụ thị trường (R) của nhà bán lẻ là nhân tố quyết định đặc điểm khách hàng và các nỗ lực cung ứng dịch vụ thì trong bán lẻ B2C, thị trường được mở rộng không giới hạn. Một khách hàng ở VN có thể đặt mua một chiếc điện thoại hay một lọ nước hoa tại Mỹ qua website của sản phẩm, thông tin đơn hàng sẽ được truyền đi và chấp nhận với tốc độ gần như tức thời.